Nguyên lý của nghiệm pháp dây thắt là cản trở tuần hoàn về tim để làm tăng áp lực trong lòng tĩnh mạch, qua đó làm tăng áp lực mao mạch, sau đó giảm áp lực một cách đột ngột. Nếu thành mạch kém bền vững thì hồng cầu sẽ bị đẩy ra khỏi thành mạch gây xuất huyết dưới da với hình thái những chấm xuất huyết nhỏ.

Nguồn ảnh: Healthline
Mục đích nghiệm pháp dây thắt
Nghiệm pháp dây thắt có thể dùng để chẩn đoán sớm sốt xuất huyết nhưng không đặc hiệu. Nghiệm pháp hỗ trợ xác định các trường hợp nhiễm khuẩn do não mô cầu, bệnh bạch hầu, thương hàn, bệnh sởi, sốt xuất huyết hoặc các bệnh gây xuất huyết khác như viêm mao mạch dị ứng, thiếu hụt các yếu tố đông máu, giảm tiểu cầu nguyên phát hoặc đông máu rải rác nội mạch,...
Chỉ định nghiêm pháp dây thắt
Nghiệm pháp dây thắt được bác sĩ chỉ định thực hiện trong tất cả những trường hợp nghi ngờ suy giảm sức bền thành mao mạch.
Quy trình thực hiện nghiệm pháp dây thắt

Nguồn ảnh: ResearchGate
Để thực hiện nghiệm pháp này, người bệnh không cần phải chuẩn bị gì đặc biệt trừ khi có chỉ định riêng từ bác sĩ.
Trước đây, nghiệm pháp dây thắt chỉ đơn giản là dùng dây (bất kỳ loại nào) thắt trong 5 phút ở cánh tay cho đến khi thấy những chấm đỏ xuất hiện. Có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến kết quả như loại dây thắt, áp lực và cách nhận định nghiệm pháp là dương tính. Do đó, hiện nay nghiệm pháp dây thắt được thực hiện theo các bước như sau:
- Kiểm tra chấm xuất huyết trên tay người bệnh, nếu có cần ghi rõ để phân biệt với các chấm xuất huyết mới xuất hiện sau khi tiến hành thực hiện nghiệm pháp.
- Dùng máy đo huyết áp quấn quanh cánh tay, bơm hơi lên để đo chỉ số huyết áp. Ví dụ, kết quả thu được là 100/70 mmHg.
- Tiếp tục duy trì bơm với áp lực trung bình (lấy trung bình cộng của huyết áp tối đa và huyết áp tối thiểu, ví dụ (100+70)/2 = 85mmHg) trong 10 phút sau đó tháo hơi nhanh và bỏ máy đo huyết áp ra. Thời gian duy trì tối thiểu phải đạt 5-7 phút nhưng đúng tiêu chuẩn phải là 10 phút.
- Giơ cao tay người bệnh để máu lưu thông bình thường. Đợi khoảng 2 phút và đếm chấm xuất huyết xuất hiện ở vị trí mặt trong cánh tay từ khuỷu tay trở xuống trên 1cm².
Kết quả của nghiệm pháp dây thắt
Khi quan sát mặt trong cánh tay phần dưới dây thắt và đếm các chấm xuất huyết, tùy số lượng và thời gian xuất hiện cũng như vị trí, ta có các kết quả sau:
- 5-9 chấm/cm²: nghi ngờ/dương tính (+).
- 10-19 chấm/cm²: dương tính (++).
- > 19 chấm/cm²: dương tính (+++).
Các chấm xuất huyết thường có đường kính khoảng một vài milimet, có thể to hơn nhưng không quá 1cm, màu đỏ, phẳng mịn trên bề mặt da. Khi dùng phiến kính ấn hoặc căng da, các đốm xuất huyết vẫn còn và chỉ biến mất trong 2-5 ngày.
Những trường hợp có kết quả nghiệm pháp dây thắt là dương tính:
Nếu người bệnh có sốt, cần xét nghiệm thêm để tìm nguyên nhân gây bệnh nhiễm khuẩn như viêm màng não do não mô cầu, bệnh bạch hầu, thương hàn, sởi, sốt xuất huyết
Nếu người bệnh không sốt có thể xảy ra một trong các trường hợp sau:
- Do thiếu vitamin C, vitamin PP.
- Do bệnh miễn dịch, dị ứng, chẳng hạn như viêm thành mạch dị ứng.
- Do một số bệnh nội khoa như lao, đái tháo đường, xơ gan, suy thận,…
- Do thiếu hụt các yếu tố đông máu của huyết tương.
- Do bệnh tiểu cầu, chẳng hạn như giảm tiểu cầu nguyên phát, suy nhược tiểu cầu (Glanzmann).
- Do xuất hiện hội chứng đông máu rải rác trong lòng mạch (tùy nhiều nguyên nhân khác nhau).
Những điều cần lưu ý
Nghiệm pháp dây thắt tuy đơn giản, dễ tiến hành và không có rủi ro nhưng người bệnh không nên tự ý thực hiện và đưa ra kết luận. Ngoài ra, nhân viên y tế cũng có thể mắc một số sai sót có thể ảnh hưởng đến kết quả như:
- Nhầm với chấm xuất huyết cũ do không kiểm tra hoặc kiểm tra không kỹ.
- Tạo áp lực quá cao hoặc quá thấp lên thành mạch khi tiến hành đo huyết áp.
- Không đảm bảo thời gian tiến hành nghiệm pháp.