AML đặc biệt ảnh hưởng đến các tế bào bạch cầu của cơ thể, khiến chúng hình thành bất thường. Trong bệnh ung thư cấp tính, số lượng tế bào bất thường phát triển nhanh chóng.
Bệnh này còn được gọi bằng các tên sau:
- Bệnh bạch cầu cấp dòng tủy (acute myelocytic leukemia)
- Ung thư bạch cầu cấp tính (acute myelogenous leukemia)
- Bệnh bạch cầu hạt cấp tính (acute granulocytic leukemia)
- Bệnh bạch cầu cấp tính không phải lympho (acute non-lymphocytic leukemia)
Theo Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ (NCI), ước tính có khoảng 19.520 trường hợp mắc mới AML hàng năm.
Các triệu chứng của AML là gì?
Trong giai đoạn đầu, các triệu chứng của AML có thể giống với bệnh cúm và người bệnh có thể bị sốt và mệt mỏi.
Các triệu chứng khác có thể gặp:
- Đau xương
- Chảy máu cam thường xuyên
- Chảy máu và sưng nướu răng
- Dễ bầm tím
- Đổ mồ hôi nhiều (đặc biệt là vào ban đêm)
- Khó thở
- Giảm cân không giải thích được
- Chảy máu nhiều hơn bình thường vào kỳ kinh nguyệt (ở người bệnh nữ)
Nguyên nhân gây ra AML?
AML là do sự bất thường trong DNA kiểm soát sự phát triển của các tế bào trong tủy xương.
Nếu người bệnh mắc AML, tủy xương của họ tạo ra vô số tế bào bạch cầu chưa trưởng thành. Những tế bào bất thường này cuối cùng trở thành các bạch bạch cầu ác tính được gọi là nguyên tủy bào (myeloblasts).
Các tế bào bất thường này tích tụ và thay thế các tế bào khỏe mạnh. Điều này làm cho tủy xương của bạn ngừng hoạt động bình thường, khiến cơ thể bạn dễ bị nhiễm trùng hơn.
Không rõ chính xác nguyên nhân gây ra đột biến DNA. Một số bác sĩ tin rằng nó có thể liên quan đến việc tiếp xúc với một số hóa chất, bức xạ, và thậm chí cả các loại thuốc được sử dụng để hóa trị.
Điều gì làm tăng nguy cơ mắc AML?
Nguy cơ mắc AML tăng lên theo tuổi tác. Tuổi trung bình của một người khi được chẩn đoán mắc AML là khoảng 68 và bệnh này hiếm khi gặp ở trẻ em.
AML cũng phổ biến hơn ở nam giới so với phụ nữ, mặc dù nó ảnh hưởng đến trẻ em trai và trẻ em gái với tỷ lệ ngang nhau.
Hút thuốc lá được cho là yếu tố làm tăng nguy cơ mắc AML. Nếu bạn làm việc trong một ngành công nghiệp tiếp xúc với các hóa chất như benzen, bạn cũng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Nguy cơ của bạn cũng tăng lên nếu bạn bị rối loạn về máu như hội chứng rối loạn sinh tủy hoặc rối loạn di truyền như hội chứng Down.
Những yếu tố nguy cơ này không có nghĩa là bạn nhất thiết phải mắc AML. Đồng thời, bạn có thể phát triển AML mà không có bất kỳ yếu tố nguy cơ nào trong số này.
AML được phân loại như thế nào?
Hệ thống phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) bao gồm các nhóm AML sau:
- AML với các bất thường di truyền, chẳng hạn như thay đổi nhiễm sắc thể
- AML với những thay đổi liên quan đến rối loạn sinh tủy
- AML liên quan đến trị liệu, có thể do bức xạ hoặc hóa trị gây ra
- AML, không được phân loại
- Sarcoma dạng dòng tủy
- Tăng sinh tủy liên quan tới hội chứng Down
- Bệnh bạch cầu cấp không phân biệt được về bệnh học.
Các dưới nhóm của AML cũng tồn tại trong các nhóm này. Tên của các dưới nhóm này có thể chỉ ra sự thay đổi nhiễm sắc thể hoặc đột biến di truyền gây ra AML.
Một ví dụ: AML với t (8; 21), trong đó sự thay đổi xảy ra giữa nhiễm sắc thể 8 và 21.
Không giống như hầu hết các bệnh ung thư khác, AML không được chia thành các giai đoạn ung thư như truyền thống.
AML được chẩn đoán như thế nào?
Bác sĩ sẽ khám sức khỏe tổng thể và kiểm tra tình trạng gan to, hạch bạch huyết và lá lách của người bệnh. Bác sĩ cũng có thể yêu cầu xét nghiệm máu để kiểm tra tình trạng thiếu máu và xác định số lượng bạch cầu.
Mặc dù xét nghiệm máu có thể giúp bác sĩ xác định xem có vấn đề gì hay không, nhưng xét nghiệm tủy xương hoặc sinh thiết là cần thiết để chẩn đoán dứt điểm AML.
Một mẫu tủy xương được lấy bằng cách đâm một cây kim dài vào xương hông của người bệnh. Đôi khi xương ức được lựa chọn để sinh thiết. Mẫu tủy xương được gửi đến phòng xét nghiệm.
Bác sĩ cũng có thể thực hiện chọc dò tủy sống, để kiểm tra sự hiện diện của các tế bào ung thư trong dịch não tủy.
Các lựa chọn điều trị cho AML
Điều trị AML bao gồm 2 giai đoạn:
Điều trị thuyên giảm
Điều trị thuyên giảm sử dụng hóa trị liệu để tiêu diệt các tế bào bệnh bạch cầu hiện có trong cơ thể bạn.
Hầu hết mọi người ở lại bệnh viện trong thời gian điều trị vì hóa trị cũng giết chết các tế bào khỏe mạnh, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng và chảy máu bất thường.
Trong một dạng AML hiếm gặp được gọi là bệnh bạch cầu nguyên bào cấp tính (acute promyelocytic leukemia - APL), các loại thuốc chống ung thư như arsenic trioxide hoặc axit retinoic all-trans có thể được sử dụng để nhắm mục tiêu các đột biến cụ thể trong tế bào bệnh bạch cầu. Những loại thuốc này tiêu diệt các tế bào bệnh bạch cầu và ngăn các tế bào không lành mạnh phân chia.
Điều trị củng cố
Liệu pháp củng cố, còn được gọi là liệu pháp sau thuyên giảm, rất quan trọng để giữ cho AML thuyên giảm và ngăn ngừa tái phát. Mục tiêu của điều trị củng cố là tiêu diệt bất kỳ tế bào bệnh bạch cầu nào còn sót lại.
Người bệnh có thể được cấy ghép tế bào gốc để điều trị củng cố. Tế bào gốc thường được sử dụng để giúp cơ thể họ tạo ra các tế bào tủy xương mới và khỏe mạnh.
Tế bào gốc có thể đến từ một người hiến tặng. Trong trường hợp người bệnh đã bị bệnh bạch cầu và đã điều trị thuyên giảm, bác sĩ có thể đã loại bỏ và lưu trữ một số tế bào gốc của chính họ để cấy ghép trong tương lai, được gọi là cấy ghép tế bào gốc tự thân.
Nhận tế bào gốc từ người hiến tặng có nhiều rủi ro hơn so với việc cấy ghép từ tế bào gốc của chính người bệnh. Tuy nhiên, việc cấy ghép tế bào gốc của chính họ có nguy cơ tái phát cao hơn vì một số tế bào ung thư cũ có thể có trong mẫu lấy từ cơ thể người bệnh.
Tiên lượng dài hạn đối với những người bị AML?
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS) khoảng 2/3 số người mắc AML nói chung có thể thuyên giảm.
Tỷ lệ thuyên giảm tăng lên gần 90% đối với những người bị APL. Việc thuyên giảm sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, chẳng hạn như tuổi của người bệnh.
Tỷ lệ sống sót sau 5 năm của người Mỹ mắc AML là 27,4 %. Tỷ lệ sống sót sau 5 năm của trẻ em bị AML là từ 60 đến 70 %.
Với việc phát hiện ở giai đoạn sớm và điều trị kịp thời, hầu hết người bệnh đều có khả năng thuyên giảm. Khi tất cả các dấu hiệu và triệu chứng của AML đã biến mất, bệnh được coi là thuyên giảm. Nếu tình trạng thuyên giảm trong hơn 5 năm, người bệnh được coi là đã khỏi bệnh AML.
Nếu bạn nhận thấy mình có các triệu chứng của AML, hãy đi khám bác sĩ. Người bệnh cũng nên đi khám ngay lập tức nếu có bất kỳ dấu hiệu nhiễm trùng hoặc sốt dai dẳng.
Bạn có thể ngăn ngừa AML bằng cách nào?
Nếu bạn làm việc ở trong môi trường có hóa chất độc hại hoặc bức xạ, hãy đảm bảo có đủ đồ bảo hộ để hạn chế tiếp xúc.
Luôn đi khám nếu bạn có bất kỳ triệu chứng nào mà bạn lo lắng.
Xem Thêm: