Đột quỵ là tổn thương não nghiêm trọng khi dòng máu cung cấp đến não bị gián đoạn khiến cho các tế bào thần kinh bị thiếu oxy. Khi không có oxy, các tế bào não sẽ bắt đầu chết dần.
Các nhà nghiên cứu ở Thụy Điển và Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu mới này. Họ muốn xem xét mối quan hệ giữa đái tháo đường type 2 ở tuổi trung niên và tai biến mạch máu não ở cuối đời và tìm hiểu yếu tố di truyền và bối cảnh gia đình có đóng vai trò gì trong đó không.
Họ định nghĩa bối cảnh gia đình bao gồm “hoàn cảnh kinh tế xã hội thời thơ ấu được chia sẻ và môi trường trưởng thành”. Bằng cách tiến hành nghiên cứu song sinh, họ hy vọng có được những hiểu biết sâu sắc về người có ảnh hưởng này.
Tuy nhiên, khi phân tích kết quả, họ kết luận rằng mối liên hệ giữa đái tháo đường type 2 ở tuổi trung niên và nguy cơ đột quỵ cuối đời không phụ thuộc vào di truyền và việc giáo dục.
Trong một bài báo của Diabetologia, các tác giả nhấn mạnh rằng “sự cần thiết của việc kiểm soát bệnh đái tháo đường type 2 ở tuổi trung niên giúp ngăn ngừa tắc nghẽn hoặc hẹp động mạch não vào cuối đời và giảm tỷ lệ đột quỵ do những tắc nghẽn đó gây ra”.
Tai biến mạch máu não và đái tháo đường type 2
Tai biến mạch máu não là một nhóm các tình trạng ảnh hưởng đến qúa trình cung cấp máu cho não. Tùy vào tổn thương mạch máu đột quỵ được chia làm 2 loại: nhồi máu não và xuất huyết.
Tai biến mạch máu não do nhồi máu não là một tình trạng giảm lưu lượng máu. Điều này do mạch máu bị hẹp hoặc thuyên tắc.
Tai biến mạch máu não xuất huyết là tình trạng mất máu khi mạch máu bị vỡ.
Mặc dù hai thể bệnh đều dẫn đến đột quỵ, nhưng phần lớn các trường hợp đột quỵ đều nhồi máu não.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đột quỵ và đái tháo đường là hai trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn thế giới.
Ước tính toàn cầu cho năm 2016 cho thấy đột quỵ làm chết gần 6 triệu người và đái tháo đường làm chết gần 1,6 triệu người trong năm đó. Đại đa số đều là người mắc đái tháo đường type 2.
Các nhà nghiên cứu giải thích rằng cả đái tháo đường type 2 và tai biến mạch máu não “đều là những rối loạn phức tạp liên quan đến lối sống và di truyền”. Các nhà khoa học cho rằng yếu tố gen và sự giáo dục góp phần vào sự tiến triển của cả hai.
Tuy nhiên, yếu tố di truyền và môi trường gia đình cũng góp phần chưa rõ ràng vào mối liên quan tiềm ẩn giữa đái tháo đường type 2 và tai biến mạch máu não.
Phân tích số liệu từ các nghiên cứu sinh đôi
Các cặp sinh đôi thường có bộ gen giống nhau và có môi trường trước khi sinh và thời thơ ấu và thanh thiếu niên giống nhau. Điều này khiến họ trở thành đối tượng lý tưởng cho các nhà khoa học nghiên cứu vai trò của gen và yếu tố môi trường trong các bệnh.
Nghiên cứu mới nhất được thực hiện ở những người từ Cơ quan đăng ký sinh đôi Thụy Điển. Cơ quan này có trụ sở tại viện Karolinska, là cơ quan đăng ký lớn nhất và bắt đầu hoạt động vào những năm 1960.
Viện Karolinska thường xuyên quản lý bằng bộ câu hỏi cho các cá nhân đăng ký. Một trong số đó là nghiên cứu sàng lọc các cặp sinh đôi suốt đời (SALT), thu thập dữ liệu từ năm 1998 đến năm 2002 từ các cặp song sinh trên 40 tuổi.
Nghiên cứu gần đây sử dụng dữ liệu SALT từ các cặp song sinh vẫn còn sống đến cuối năm 2014 và chưa đến 60 tuổi trước ngày nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ của đối tượng: mắc đái tháo đường type 1; phát hiện đái tháo đường type 2 trước 40 tuổi hoặc sau 60 tuổi; tai biến mạch máu não trước 60 tuổi; hoặc tiền sử có một cơn đột quỵ nhẹ, hoặc cơn thiếu máu cục bộ thoáng qua.
Sau khi loại trừ nghiên cứu còn 33.086 người gồm 14.969 nam và 18.117 nữ để phân tích. Ngoài thông tin nhân khẩu học như tuổi, giới và trình độ học vấn, số liệu bao gồm thông tin về việc sử dụng thuốc, tình trạng hút thuốc, sử dụng rượu, cân nặng, chiều cao và tương đồng về di truyền.
Sau khi tham khảo ý kiến của Cơ quan đăng ký bệnh nhân của Thụy Điển, các nhà nghiên cứu cũng tìm được người có cả đái tháo đường type 2 và tai biến mạch máu não.
Đái tháo đường type 2 và nguy cơ hẹp động mạch
Tổng hợp tất cả các thông tin lại với nhau, các nhà điều tra phát hiện 1.248 người (3,8% nhóm thuần tập) mắc đái tháo đường trong độ tuổi từ 40–59 tuổi và 3,121 người (9,4% nhóm thuần tập) mắc tai biến mạch máu não sau 60 tuổi
Khi phân tích kết quả, nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng nhóm mắc đái tháo đường type 2 tuổi trung niên tăng gấp đôi nguy cơ khởi phát hẹp tắc động mạch sau tuổi 60 so với nhóm không mắc đái tháo đường.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có mối liên quan giữa đái tháo đường type 2 ở tuổi trung niên và nguy cơ bị tắc nghẽn động mạch não nghiêm trọng cao hơn 30% và thường dẫn đến đột quỵ.
Tuy nhiên, phân tích không thấy mối liên hệ nào giữa đái tháo đường type 2 ở tuổi trung niên và tai biến mạch máu não dạng xuất huyết như xuất huyết não hoặc xuất huyết dưới nhện.
Khi phân tích, các nghiên cứu viên đã loại bỏ tác động của các yếu tố nhiễu như tuổi, giới, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, BMI, sử dụng thuốc lá và rượu, mắc bệnh tim mạch và tăng huyết áp.
Họ đã sử dụng "phân tích so sánh cặp song sinh" để so sánh dữ liệu từ "các cặp song sinh bất đồng", nghĩa là cặp song sinh có một người có biểu hiện còn một người khác thì không.
Tìm kiếm lời giải thích hợp lí
Nhóm nghiên cứu cho rằng mối liên quan về sinh học giữa đái tháo đường type 2 và tai biến mạch máu não có thể phức tạp và không rõ ràng.
Những người mắc đái tháo đường type 2 tăng lượng chất béo bất thường trong máu. Họ có tốc độ tích tụ chất béo ở thành động mạch để hình thành mảng xơ vữa nhanh hơn nhiều.
Rất nhiều yếu tố dẫn đến gián đoạn trao đổi chất, đó là lý do tại sao Đái tháo đường type 2 làm cho tai biến mạch máu não xảy ra dễ dàng hơn. Những yếu tố này bao gồm tăng đường máu và lắng đọng chất béo, viêm, đề kháng insulin và kích thích làm tăng sản xuất insulin.
Để giải thích thiếu liên kết giữa đái tháo đường type 2 và tai biến mạch máu não dạng xuất huyết, các nhà nghiên cứu giải thích là do đái tháo đường làm thay đổi lớp niêm mạc của mạch máu.
Những người mắc đái tháo đường type 2 xu hướng có nhiều tế bào hơn trong niêm mạc mạch máu. Điều này giúp làm giảm nguy cơ vỡ mạch nhưng cũng tăng nguy cơ tắc nghẽn.
Nhóm cũng chỉ ra hai nhược điểm chính trong nghiên cứu của họ. Thứ nhất là không có đủ số lượng các cặp song sinh, trong đó chỉ có một cặp song sinh mắc tai biến mạch máu não. Hạn chế thứ hai là họ không thể tính toán yếu tố di truyền một cách đầy đủ vì họ không thể phân biệt được đâu là cặp song đôi cùng trứng và sinh đôi khác trứng.
Cuối cùng, vì bộ câu hỏi SALT không đề cập đên thói quen ăn uống và việc tập thể dục nên không thể đánh giá các yếu tố này trong phân tích của họ.
Các tác giả cho rằng với những hạn chế này cần tiến hành "các nghiên cứu sinh đôi lớn, theo dõi trong thời gian dài để làm rõ thêm."
Xem thêm: