Nằm cách trung tâm thành phố Huế chỉ 10km, Lăng Khải Định là công trình kiến trúc cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là lăng tẩm gây nhiều tr.anh c.ãi nhất.
Lăng Khải Định được khởi công từ năm 1920 và 11 năm sau mới hoàn tất. Vua Khải Định m.ấ.t năm 1925, khi nơi an nghỉ của ông còn dang dở…
Công trình “t.ai t.iếng”
Trong số 13 đời vua nhà Nguyễn, có lẽ Khải Định là vị vua nhiều điều tiếng nhất. Khải Định bị xem là ông vua b.ù nh.ìn, nh.u nh.ược trước thực dân Pháp tới mức trong dân gian xứ Huế lúc bấy giờ còn truyền miệng câu vè ch.âm b.iếm chua cay rằng:
“Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây
Nghề này thì lấy ông này t.iên s.ư”
Không những thế Khải Định còn nổi tiếng là ông vua ăn chơi, c.ờ b.ạc, tiêu pha xa xỉ, và đặc biệt là có sở thích ăn mặc lai căng, diêm dúa, l.òe l.oẹt chẳng giống ai: “Mặc complet bên trong khoác long bào bên ngoài, ngực lấp lánh Bắc đẩu bội tinh, thắt lưng gắn bóng đèn điện chớp đỏ”. Tính cách ấy của vua Khải Định phần nào cũng đã thể hiện khá rõ trên những công trình kiến trúc quan trọng của cuộc đời ông.

Khải Định lên ngôi đúng vào buổi s.uy t.àn của thời kì phong kiến nhưng lại ra sức xây dựng nhiều cung điện, dinh thự, lăng tẩm xa hoa, tráng lệ để phục vụ cho bản thân và hoàng tộc như: Điện Kiến Trung, cung An Định, cửa Trường An, cửa Hiển Nhơn… Việc xây dựng những công trình hao người tốn của này đã khiến cho dân chúng oá.n tr.ách, xã hội lên á.n.
Đặc biệt, để có kinh phí xây dựng lăng Khải Định, vua đã cho tăng thuế ruộng đất trên cả nước lên tới 30%, hành động này không những bị dân chúng oá.n th.án mà lịch sử cũng lên á.n g.ay g.ắt.

Điều khiến cho công trình này chịu nhiều điều tiếng khen chê, tr.anh c.ãi trái chiều chính là phong cách kiến trúc của nó. Thậm chí, giới nghiên cứu về văn hóa, kiến trúc, lịch sử nhiều người còn đặt lăng Khải Định ra ngoài dòng kiến trúc truyền thống thời Nguyễn bởi họ cho rằng nó quá mới lạ, thậm chí là lạc lõng so với phong cách kiến trúc cung đình Huế vốn luôn coi trọng những nguyên tắc, thể thức, lề lối quy chuẩn bắt buộc của hoàng gia. Có người còn cho đó là sự lai c.ăng, k.ệch c.ỡm, l.ố b.ịch thể hiện cá tính ng.ông ngh.ênh cũng như sở thích kỳ qu.ặc của vua Khải Định.

Bức ảnh phía dưới được chụp khi lăng đã gần hoàn thiện, các lều lán đã được dỡ bỏ
Mang giá trị kiến trúc và nghệ thuật
Tuy nhiên, có một sự thật ai cũng phải thừa nhận, đó là lăng Khải Định mang một vẻ đẹp đ.ộ.c đáo, mới lạ khiến cho người xem có cảm giác choáng ngợp trước vẻ quy mô và sự bề thế của nó
Lăng Khải Định được khởi công vào ngày 4/9/1920 và kéo dài trong 11 năm mới hoàn thành. Lăng nằm trên núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê), bên ngoài kinh thành Huế, nay thuộc xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.

So với lăng của các vua tiền nhiệm, lăng Khải Định có diện tích nhỏ hơn nhiều, nhưng được xây dựng công phu và tốn nhiều thời gian, tiền của hơn. Nhìn tổng thể, lăng tọa lạc ở vị thế có phong cảnh núi non hữu tình lại vừa mang cái vẻ bề thế, uy nghi đúng như sở nguyện của vị vua đa tính cách này.
Nhìn toàn cảnh, lăng Khải Định có một cái gì đó vừa quen, vừa lạ. Quen vì lăng cũng có đôi hàng tượng đá voi ngựa, quan văn, quan võ, l.ính hầu đứng chầu, cũng có thềm đá bệ rồng, có tam quan, cửa võng… Nhưng lạ vì khối nhà chính lại có hình dáng như một tòa dinh thự Pháp cùng với những tháp bê tông cao vút trông như các tháp đền ở Ấn Độ…

Theo các nhà nghiên cứu về văn hóa, kiến trúc, lăng Khải Định có sự giao thoa của nhiều trường phái kiến trúc khác nhau như: Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… Điều đó thể hiện rõ trên những trụ cổng hình tháp ảnh hưởng từ kiến trúc Ấn Độ, trụ biểu dạng stoupa của Phật giáo, những hàng cột và vòm cửa theo lối Roman biến thể… Đây là kết quả của yếu tố giao thoa văn hóa Đông – Tây trong buổi giao thời lúc bấy giờ, cũng như cá tính hiếu kỳ, d.iêm d.úa, ưa sao chép, bắt chước những thứ mới lạ của vua Khải Định.

Nhưng may mắn rằng, mặc cho vua Khải Định có ý tưởng mong muốn ôm đồm tất cả thứ mới lạ của Đông Tây, kim cổ thì những người thợ tài danh xứ Huế nói riêng và cả nước nói chung bằng tài năng, trí tuệ và sự tinh tế đã khéo léo biến ý tưởng có phần đ.iên r.ồ ấy thành một tuyệt tác nghệ thuật để lại cho muôn đời sau.

Bên cạnh yếu tố mới lạ đến từ sự giao thoa văn hóa, kiến trúc Đông – Tây, giá trị lớn nhất đưa lăng Khải Định đạt đến tầm kiệt tác nghệ thuật chính là nghệ thuật khảm sành sứ và thủy tinh màu.


Mặc dù bị người đời ch.ê b.ai, lên á.n dưới nhiều góc độ khác nhau, song lăng Khải Định – đích thực là một công trình có giá trị về mặt nghệ thuật và kiến trúc. Thậm chí, lăng còn được đánh giá là một kiệt tác về nghệ thuật khảm sành sứ cung đình Huế, góp phần làm phong phú, đa dạng thêm quần thể lăng tẩm ở Huế nói riêng và di sản Huế nói chung.