Cũng giống như phụ nữ, nam giới cũng có những vấn đề sức khỏe sinh sản riêng biệt và cũng cần được điều trị. Các bệnh lý nam khoa này, bao gồm cả vô sinh, được điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa nam khoa.
Nam khoa
Nam khoa là gì?
Nam khoa là một chuyên khoa thuộc y tế, chuyên điều trị các bệnh và tình trạng bất thường ở riêng cho nam giới, đặc biệt là những bệnh của hệ thống sinh sản nam giới.
Trong xã hội, có một số nhầm lẫn giữa tiết niệu và nam khoa. Để phân biệt rõ ràng giữa hai điều này, ta nên hiểu tiết niệu là lĩnh vực y tế rộng hơn, bao gồm các vấn đề về đường tiết niệu ở cả nam và nữ và hệ thống sinh sản nam. Trong khi đó, nam khoa là một chuyên ngành phụ của tiết niệu, đặc biệt tập trung vào các vấn đề sinh sản của nam giới, bao gồm vô sinh nam, liệt dương và rối loạn chức năng tình dục… Nói một cách đơn giản, cả nam và nữ đều có thể đến gặp bác sĩ tiết niệu để điều trị các vấn đề về đường tiết niệu. Trong khi bác sĩ tiết niệu cũng có thể điều trị các vấn đề thuộc hệ thống sinh sản nam thì bác sĩ nam khoa chỉ chuyên về các phương pháp điều trị chuyên biệt các vấn đề sinh sản của nam giới.
Một nghiên cứu năm 1989 đã chỉ ra rằng một nhóm điều trị vô sinh sẽ không toàn diện nếu không có bác sĩ chuyên khoa nam khoa vì chuyên môn của các chuyên gia này bao gồm tất cả các khía cạnh về khả năng sinh sản của nam giới, bao gồm sinh lý học, nội tiết, hóa sinh, di truyền học, miễn dịch học, mô bệnh học, phẫu thuật, điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục và giới tính học. Nhờ đó, chuyên gia nam khoa có thể đưa ra phương pháp điều trị chính xác và chuyên biệt hơn cho các bệnh nhân nam hiếm muộn.
Các xét nghiệm cận lâm sàng đánh giá vô sinh nam
Khi nói đến việc quản lý vô sinh nam, dưới đây là các loại xét nghiệm cận lâm sàng giúp đánh giá chức năng của tinh trùng mà các bác sĩ chuyên khoa nam học có thể chỉ định cho bệnh nhân:
Phân tích tinh dịch

Phân tích tinh dịch là xét nghiệm tiêu chuẩn được thực hiện như một đánh giá chủ yếu về khả năng sinh sản của nam giới. Xét nghiệm này cung cấp thông tin hữu ích liên quan đến khả năng sản xuất tinh trùng, khả năng di chuyển và khả năng sống của tinh trùng, chức năng đường sinh dục nam, khả năng dịch tiết của các bộ phận sinh dục, cũng như khả năng xuất tinh. Trong xét nghiệm này, một mẫu tinh dịch được lấy và phân tích cả định lượng và định tính. Phân tích định lượng mẫu bao gồm xác định số lượng hoặc nồng độ tinh trùng. Phân tích định tính bao gồm việc kiểm tra kỹ lưỡng tinh trùng dựa trên hình thái, sức sống và khả năng vận động của chúng.
Mặc dù phân tích tinh dịch thường quy đưa ra các thông tin hữu ích để đánh giá ban đầu về nam giới vô sinh, nhưng các thông số đó có thể không đủ để giải thích vấn đề sinh sản vì chỉ đánh giá qua một lần xuất tinh, trừ khi là bất thường đáng kể. Các xét nghiệm bổ sung có thể cần được chỉ định thêm để đánh giá đầy đủ khả năng hoạt động của tinh trùng.
Xét nghiệm đánh giá phân mảnh DNA tinh trùng
Xét nghiệm đánh giá phân mảnh DNA là một xét nghiệm được sử dụng để đo lượng DNA tinh trùng bị hư hỏng trong một mẫu tinh dịch. Yếu tố chính gây ra tổn thương DNA của tinh trùng là stress oxy hóa, do sản xuất quá nhiều các loại oxy phản ứng. Các yếu tố ảnh hưởng khác bao gồm các khiếm khuyết trong cơ chế đóng gói nhiễm sắc và sửa chữa DNA của tinh trùng, cũng như các bất thường trong quá trình điều chỉnh quá trình chết theo chương trình của tế bào, vốn rất quan trọng để điều chỉnh sản xuất tinh trùng.
Tất cả nam giới đều có một số tổn thương DNA của tinh trùng nhất định, nhưng sự phân mảnh DNA của tinh trùng (SDF) cao hơn đáng kể ở những người đàn ông vô sinh. Mặc dù nam giới có thông số tinh dịch kém thường có nhiều khả năng có SDF cao, nhưng SDF cao cũng có thể được tìm thấy ở nam giới có thông số tinh dịch bình thường - những người được chẩn đoán là vô sinh không rõ nguyên nhân. Mức độ phân mảnh DNA của tinh trùng (SDF) cao có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản do cản trở quá trình thụ tinh, phát triển phôi sớm, làm tổ và mang thai. Một phương pháp của xét nghiệm này là xét nghiệm phân tán nhiễm sắc thể tinh trùng (SCD) - đo tỷ lệ phần trăm tinh trùng có ADN bị phân mảnh, được gọi là chỉ số phân mảnh ADN (DFI).
Nam giới có DFI dưới 15% có khả năng sinh sản cao hơn. Những người đàn ông có DFI lớn hơn 30% có khả năng sinh sản thấp và sẽ cần điều trị lâm sàng để cải thiện chất lượng tinh trùng.
Xét nghiệm stress oxy hóa tinh trùng
Các loại oxy phản ứng (ROS) là sản phẩm phụ của quá trình chuyển hóa oxy được giải phóng từ các tế bào tinh trùng và bạch cầu. Với số lượng lý tưởng, ROS phục vụ để tối ưu hóa chức năng của tinh trùng. ROS được trung hòa bởi chất chống oxy hóa và được giữ ở mức tối ưu.
Trạng thái stress oxy hóa tiến triển và có thể dẫn đến quá trình oxy hóa lipid, thay đổi protein, làm tổn thương DNA và chết tinh trùng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng stress oxy hóa là một trong những nguyên nhân chính gây vô sinh nam, đặc biệt là đối với những người vô sinh nam không rõ nguyên nhân và vô căn. Stress oxy hóa không chỉ ảnh hưởng đến tinh trùng mà còn có thể gây ra những hậu quả ở mức độ hệ thống như giảm lượng testosterone hoặc LH. Tăng cấp độ oxy hóa cũng gây sát thương trực tiếp DNA của tinh trùng, do đó ảnh hưởng đến sự đóng góp của hệ gen của người cha đối với phôi thai.
Xét nghiệm khả năng gắn kết với hyaluronan của tinh trùng (HBA)
Đây là một xét nghiệm chức năng của tinh trùng nhằm đánh giá định tính chất lượng, sự trưởng thành và khả năng thụ tinh của tinh trùng bằng cách đo tỷ lệ tinh trùng liên kết với hyaluronan. Kết quả HBA có thể hỗ trợ các bác sĩ lâm sàng xác định những bệnh nhân có tiên lượng xấu khi tiến hành thụ tinh trong tử cung (IUI) và thụ tinh trong ống nghiệm (IVF).
Kiểm tra khả năng sống sót của tinh trùng
Thử nghiệm khả năng sống sót của tinh trùng bao gồm việc rửa tinh trùng và loại bỏ chúng khỏi tinh dịch. Sau đó tinh trùng được nuôi cấy và ủ trong 24 đến 48 giờ. Xét nghiệm này giúp đo lường các khía cạnh năng động hơn của chức năng tinh trùng so với phân tích tinh dịch cơ bản.
Hai đặc tính sinh lý quan trọng của tinh trùng cần thiết để thụ tinh thành công là số lượng tinh trùng di động cao trong một mẫu tinh dịch và thời gian sống của những tinh trùng đó. Xét nghiệm này nhằm cung cấp hai thông tin chính: (1) tổng số tinh trùng có thể có trong quá trình chuẩn bị IUI và (2) khả năng sống sót của những tinh trùng này trong 48 giờ.
Phân tích tinh dịch ngược dòng
Phân tích tinh dịch ngược dòng được chỉ định ở bệnh nhân nam có lượng tinh dịch ít và số lượng tinh trùng thấp trong lần phân tích tinh dịch đầu tiên. Đó là dấu hiệu của xuất tinh ngược dòng xảy ra khi tinh dịch đi vào bàng quang thay vì xuất ra qua dương vật trong khi đạt cực khoái.
Xuất tinh ngược dòng xảy ra khi cơ cổ bàng quang không thắt chặt thích đáng. Bệnh nhân bị xuất tinh ngược thường có tiền sử phẫu thuật trước đó hoặc có các bất thường dẫn đến tình trạng này.
Những nam giới có nguy cơ xuất tinh ngược cao hơn là những người đã từng phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt, phẫu thuật ung thư tinh hoàn hoặc phẫu thuật bàng quang thời thơ ấu.
Các yếu tố dẫn đến xuất tinh ngược khác bao gồm tác dụng phụ của một số loại thuốc dùng để điều trị huyết áp cao, phì đại tuyến tiền liệt và trầm cảm; tổn thương thần kinh do một tình trạng bệnh lý gây ra như bệnh đái tháo đường, bệnh đa xơ cứng, bệnh Parkinson hoặc chấn thương tủy sống.
Thử nghiệm rửa tinh trùng
Thử nghiệm rửa tinh trùng liên quan đến việc tách tinh trùng khỏi dịch tinh. Xét nghiệm này thường được sử dụng để xác định xem kỹ thuật này có phải là cách tiếp cận khả thi để mang thai bằng IUI hay IVF hay không.
Khả năng đông lạnh
Kiểm tra khả năng đông lạnh bao gồm việc đông lạnh tinh trùng ở nhiệt độ "cực lạnh" bằng cách sử dụng nitơ lỏng và phân tích sau rã đông của tinh trùng còn sống sau khi quá trình đông lạnh hoàn thành.
Điều này được thực hiện để người ta có thể biết khả năng tinh trùng sống sót trong quá trình đông lạnh và rã đông để cung cấp cho bác sĩ lâm sàng và bệnh nhân một đánh giá chính xác nhất có thể về chất lượng của tinh trùng đông lạnh. Nếu khả năng sống sót sau rã đông là chấp nhận được, phương pháp đông lạnh tinh trùng có thể được áp dụng cho bất kỳ nam giới nào trong độ tuổi sinh sản đang phải điều trị bệnh mà phương pháp điều trị đó có khả năng làm giảm khả năng sinh sản.
Nếu bạn và người bạn đời đã cố gắng thụ thai trong hơn một năm nhưng không thành công, có thể đã đến lúc đi khám và tham khảo ý kiến từ các chuyên gia sinh sản.
Xem thêm: